Khái niệm đầu thai trong tôn giáo phương Đông Đầu thai

Ấn Độ giáo

Bài chi tiết: luân hồi

Ấn Độ ý tưởng về sự đầu thai được giới thiệu lần đầu tiên trong Áo nghĩa thư (Upanishad) (c. 800 TCN -), là những bản kinh về triết lý và tôn giáo được viết bằng tiếng Phạn. Học thuyết về sự đầu thai là không có trong bộ kinh Vệ Đà, nhìn chung được xem là bộ kinh cổ xưa nhất của Ấn Độ.

Ấn Độ giáo quan niệm rằng linh hồn (của bất kì thể sống nào - bao gồm muôn thú, con người và cây cỏ) đầu thai có liên hệ một cách phức tạp với nghiệp(karma), một khái niệm khác lần đầu được giới thiệu trong bộ Áo Nghĩa thư. Nghiệp (nghĩa đen là hành động) là tổng của các hành động của một người, và là lực sẽ quyết định sự đầu thai kế tiếp của người đó.

Vòng xoay của việc chết và tái sinh, được điều khiển bởi nghiệp, được gọi là luân hồi (samsara). Những ý tưởng về đầu thai, nghiệp, và luân hồi đều được tìm thấy trong Ấn Độ giáo, Phật giáo, đạo Jainđạo Sikh. Trong tất cả các truyền thống tôn giáo này, sự cứu rỗi cuối cùng là sự giải thoát (moksha hay là mukti) khỏi vòng luân hồi của việc chết đi và tái sinh. Trong Phật giáo, sự giải thoát này thường được nhắc đến như là niết bàn (nirvana). Các truyền thống Bhakti (sùng kính) khác xem việc giải thoát khỏi luân hồi như là sự bắt đầu của một đời sống tâm linh thật sự, tiếp tục vượt lên trên cả niết bàn và tự do khỏi cõi trần tục.

Khái niệm niết bàn được phổ biến rộng hơn (xem Phái Bất Nhị (Advaita Vedanta)]]) theo sau sự hiện diện của nhà hiền triết Ấn Độ giáo vĩ đại Adi Shankaracharya. Đối với một số trường phái Ấn Độ giáo, quan niệm rằng việc làm lắng đọng các nghiệp của một người và trở nên hài hòa cuối cùng sẽ giải thoát người đó khỏi sự đầu thai là một giáo lý trung tâm.

Theo quan điểm của Ấn Độ giáo, đầu thai không thể giống như sự xuất hiện trở lại của linh hồn hay một người ở trong một cơ thể vật chất, mà đúng hơn là cảm nhận về thế giới chỉ tồn tại như một biểu thị xung quanh nhận thức, và điều này chỉ được duy trì như là một hành động của tâm thức. Theo Adi Shankaracharya, thế giới như chúng ta thường nhận biết nó chỉ là một giấc mơ: phù du vàviển vông. Bị kẹt lại trong Luân hồi là kết quả của sự thiếu hiểu biết về bản chất thực sự của sự sinh tồn.

Phật giáo

Phật giáo chấp nhận thuyết luân hồi (samsara), quá trình của việc tái sinh; tuy nhiên, trong Phật Giáo Nguyên Thủy, Tạng Vi Diệu Pháp của Tam Tạng Pali, Tâm Thức là đối tượng được tái sinh.

Thêm vào khái niệm vô ngã, Phật giáo Tây Tạng tin rằng một đứa trẻ mới ra đời có thể là tái sinh của một vị Lạt-ma quan trọng nào đó vừa mới qua đời. Trong Phật giáo Tây Tạng, những chất liệu làm nên bản ngã nhất thời (ngũ uẩn - skandha) của một Lạt-ma quan trọng (như vị Đạt-lại Lạt-ma) được cho là tái sinh vào một trẻ sơ sinh sinh ra chín tháng sau khi vị Lạt-ma đó qua đời. Quá trình này được cho là xảy ra sau nhiều năm kết tinh ngũ uẩn qua tu tập. Và người ta nói rằng, sau khi thể xác chết, một phần của ngũ uẩn đã kết tinh (cái mà thông thường sẽ tan rã khi chết) sẽ tự gắn vào với ý thức. Nhờ đó, khi tái sinh vào một trong 6 cõi, con người mới sẽ có một phần tính cách cũ. Tuy nhiên, niềm tin này rất mâu thuẫn với những lời dạy của Phật về quy luật Nghiệp và Quả của Nghiệp.

Trong bài kinh Mahākammavibhaṅgasutta, Đức Phật dạy về bốn tính chất về nghiệp như sau:

"Này Ānanda, như vậy tóm lại:

Ác nghiệp nặng ngăn cản ác nghiệp nhẹ.

Ác nghiệp có cơ hội ngăn cản thiện nghiệp.

Thiện nghiệp có cơ hội ngăn cản ác nghiệp.

Thiện nghiệp có nhiều năng lực ngăn cản thiện nghiệp có ít năng lực."

Như vậy, cõi giới tái sanh của người ấy phụ thuộc vào thiện nghiệp hoặc ác nghiệp nặng nhẹ có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau.